AHA ĐIỂM TÊN NHỮNG TIẾN BỘ LỚN NHẤT VỀ NGHIÊN CỨU TIM MẠCH NĂM 2024

AHA ĐIỂM TÊN NHỮNG TIẾN BỘ LỚN NHẤT VỀ NGHIÊN CỨU TIM MẠCH NĂM 2024

Mỗi năm, người ta càng hiểu sâu hơn về các con đường sinh bệnh tim mạch. Cùng với các tiến bộ liên tục về công nghệ và liệu pháp, điều này đã mở ra những cách mới cho ngăn ngừa và điều trị bệnh tim và đột quỵ.

Là tổ chức tài trợ hàng đầu cho nghiên cứu liên quan đến tim và đột quỵ, Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ (AHA) biên soạn một bản đánh giá hàng năm về những tiến bộ khoa học quan trọng trong cuộc chiến chống lại bệnh tim mạch, căn bệnh cướp đi sinh mạng của hơn 850.000 người tại Hoa Kỳ mỗi năm và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và tàn tật trên toàn thế giới.

Năm 2024, một số bước tiến đáng chú ý được thực hiện về khả năng đánh giá nguy cơ tim mạch, xác định các yếu tố dự báo bệnh sớm hơn, mang lại nhiều cơ hội phòng ngừa bệnh tốt hơn. Nhu cầu cấp thiết về phòng ngừa bệnh tại nhà do các nghiên cứu tiết lộ đã thay đổi khuynh hướng chăm sóc sức khỏe quốc gia, mặt khác gánh nặng bệnh tim mạch vốn đang giảm lại đảo ngược bắt đầu tăng lên - một xu hướng đáng lo ngại mà các nhà nghiên cứu dự báo còn tiếp tục trong những thập kỷ tới.

Các nhà điều tra có những bước tiến lớn trong phát triển các chiến lược nhằm giảm các biến cố và tử vong do suy tim, khám phá các liệu pháp mới cho tình trạng đột quỵ xuất huyết, tìm ra nhiều lợi ích của thuốc chống béo phì và các cách giảm nguy cơ đe dọa tính mạng do choáng tim. Sau đây là một số tiến bộ ý nghĩa nhất trong năm 2024.

Dự báo gánh nặng của bệnh tim mạch CVD

CVD – bao gồm bệnh tim vành, suy tim, rung nhĩ và đột quỵ – là những nguyên nhân gây tử vong phổ biến nhất ở Hoa Kỳ. Sau nhiều thập kỷ giảm tỷ lệ tử vong và bệnh tật liên quan đến CVD và đột quỵ, xu hướng đảo ngược và tỷ lệ mắc bệnh bắt đầu tăng trở lại trong những năm gần đây.

Theo các nghiên cứu sâu rộng đưa đến Cố vấn Tổng thống của AHA mới , tỷ lệ mắc CVD và nhiều yếu tố nguy cơ của nó dự kiến sẽ tiếp tục tăng trong 30 năm tới. Đến năm 2050, CVD dự kiến sẽ tăng từ 11,3% lên 15% dân số, ảnh hưởng đến 45 triệu người lớn ở Hoa Kỳ. Tỷ lệ đột quỵ dự kiến sẽ tăng gấp đôi, từ 10 triệu lên gần 20 triệu người lớn. Béo phì - một yếu tố nguy cơ chính của CVD - được dự đoán sẽ tăng từ 43% dân số lên hơn 60%. Những phát hiện này đóng vai trò như một lời kêu gọi hành động và cảnh báo rằng chúng ta phải kiểm soát tốt hơn các yếu tố nguy cơ tránh cơn sóng thần sắp tới của bệnh tim chuyển hóa.

Điều trị CVD cực kỳ tốn kém. Vào năm 2020, cứ 3 người lớn ở Hoa Kỳ thì 1 người được chăm sóc một yếu tố hoặc tình trạng nguy cơ tim mạch. Trong một Cố vấn Tổng thống của AHA thứ hai, các nhà nghiên cứu đã cảnh báo rằng gánh nặng kinh tế liên quan cũng tiếp tục tăng ở Hoa Kỳ trong những thập kỷ tới. Phân tích nghiên cứu chuyên sâu này dự đoán chi phí chăm sóc sức khỏe cho các yếu tố nguy cơ tim mạch tăng gấp ba lần vào năm 2050 so với mức năm 2020, từ 400 tỷ đô la lên 1,344 nghìn tỷ đô la.

Dự báongăn ngừa bệnh tim mạch trong tương lai

Ngày càng có nhiều nghiên cứu tập trung vào các phương pháp dự báo nguy cơ mắc CVD trong tương lai để thực hiện nhiều nỗ lực có chủ đích hơn nhằm ngăn ngừa bệnh.

Một nghiên cứu tìm cách xác định những người có nguy cơ mắc CVD dựa trên cách hoạt động của tiểu cầu trong máu họ.

Nghiên cứu chỉ ra tiểu cầu hoạt động quá mức dễ kết dính lại với nhau tạo thành cục máu đông trong động mạch có khả năng gây tử vong, một tình trạng được gọi là huyết khối xơ vữa động mạch. Điều này có thể dẫn đến đau tim và đột quỵ.

Người ta đã biết về tình trạng này từ lâu, nhưng việc xác định những người có nguy cơ mắc bệnh do tăng hoạt tiểu cầu vẫn còn là một thách thức. Hiện nay, nghiên cứu di truyền đã mở ra một hướng đi mới. Các nhà điều tra đã tìm kiếm sự khác biệt về mặt di truyền giữa những người mắc bệnh động mạch ngoại biên, hay PAD, có tiểu cầu tăng hoạt động và so sánh chúng với gen của những người khỏe mạnh.

Sau khi sàng lọc qua hàng trăm gen, họ đã phát triển PRESS  (the Platelet Reactivity ExpreSsion Score), điểm số biểu hiện phản ứng tiểu cầu – một công cụ đánh giá phản ứng tiểu cầu bằng cách sử dụng các dấu hiệu di truyền. Một nghiên cứu xác nhận công cụ này cho thấy hữu ích trong xác định những người hưởng lợi từ liệu pháp chống kết tập tiểu cầu giảm nguy cơ mắc các biến cố tim mạch trong tương lai.

Ba nghiên cứu mới cho thấy cholesterol, tăng huyết áp và lối sống ít vận động - tất cả đều là những yếu tố nguy cơ tim mạch chính ở người lớn - có thể bắt đầu gây hại ngay từ khi còn nhỏ.

Cholesterol cao là một yếu tố nguy cơ chính gây xơ vữa động mạch, sự tích tụ mảng bám trong động mạch có thể gây đau tim và đột quỵ. Nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng nguy cơ mắc các biến cố tim mạch này tăng lên cùng với việc tiếp xúc tích lũy trong suốt cuộc đời với cholesterol lipoprotein tỷ trọng thấp, hay LDL, còn gọi là cholesterol "xấu". Các nghiên cứu khác đã phát hiện ra rằng sự biến động của LDL có liên quan với các hậu quả tim mạch tồi tệ hơn, nhưng lý do tại sao việc tiếp xúc với cholesterol lại gây ra sự phát triển của mảng bám viêm vẫn chưa được hiểu rõ.

Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy manh mối thông qua một nghiên cứu trong đó chuột được cho ăn chế độ ăn phương Tây có hàm lượng cholesterol cao – hoặc là không liên tục, khiến cholesterol tăng và giảm, hoặc liên tục nhưng bắt đầu muộn hơn. Trong số những con chuột được cho ăn chế độ ăn này không liên tục và sớm hơn, các nhà nghiên cứu đã ghi nhận những thay đổi về số lượng và loại đại thực bào động mạch, hoặc tế bào bạch cầu đóng vai trò quan trọng trong xơ vữa động mạch. Những con chuột này cũng tăng tốc độ phát triển mảng bám.

Các nhà nghiên cứu tương tự sau đó đã phân tích dữ liệu từ Nghiên cứu Young Finns, một trong những nghiên cứu dài hạn lớn nhất về nguy cơ tim mạch từ thời thơ ấu đến tuổi trưởng thành. Họ đã tìm thấy mối liên hệ giữa việc tiếp xúc với cholesterol từ sớm trong cuộc đời và kích thước mảng bám ở người tuổi trung niên. Tổng hợp lại, họ kết luận rằng những phát hiện này cho thấy tiếp xúc với cholesterol sớm, không liên tục có thể là một yếu tố dự báo mạnh mẽ về phát triển mảng bám nhanh chóng, cho thấy cholesterol cao trong giai đoạn đầu đời thậm chí còn gây hại hơn cholesterol không tăng cho đến khi trưởng thành muộn.

Tương tự như vậy, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy tăng huyết áp, hay huyết áp cao, phát triển ở trẻ em là một yếu tố dự báo mạnh mẽ về sức khỏe tim mạch xấu ở tuổi trưởng thành. Tăng huyết áp ở trẻ em đang gia tăng, ảnh hưởng đến khoảng 1 trong 25 thanh thiếu niên Hoa Kỳ từ 12 đến 19 tuổi.

Các nhà nghiên cứu đã so sánh dữ liệu sức khỏe dài hạn của 26.605 trẻ em Canada được chẩn đoán mắc bệnh tăng huyết áp với 128.025 trẻ em cùng lứa tuổi không mắc bệnh. Đến 20 năm sau, trẻ em được chẩn đoán mắc bệnh tăng huyết áp phải đối mặt với nguy cơ mắc biến cố tim mạch bất lợi lớn, hay MACE, cao gấp đôi, bao gồm đột quỵ, nhập viện vì đau tim hoặc đau thắt ngực không ổn định, can thiệp mạch vành hoặc suy tim sung huyết.

Lối sống ít vận động là một yếu tố nguy cơ tim mạch lớn khác và là vấn đề ngày càng gia tăng ở trẻ em trên toàn thế giới, những người dành trung bình 8 đến 10 giờ mỗi ngày để không hoạt động trong thời gian dài. Phân tích thứ cấp này của Nghiên cứu dọc về cha mẹ và trẻ em Avon ở Anh đã điều tra tác động của thời gian ít vận động, hoạt động thể chất cường độ nhẹ và hoạt động thể chất vừa phải đến mạnh lên cấu trúc và chức năng tim của 1.682 trẻ em trong 13 năm.

Họ phát hiện trẻ em càng ít vận động kéo dài thì kích thước tim càng tăng. Nhìn chung, thời gian ít vận động góp phần làm tăng mỡ cơ thể, tình trạng viêm, huyết áp, cholesterol, độ cứng động mạch và phì đại tim sau đó, làm tăng nguy cơ mắc các vấn đề tim mạch sau này. Giảm thói quen ít vận động bằng cách tham gia hoạt động thể chất nhẹ ít nhất ba giờ mỗi ngày sẽ làm giảm những tác động này.

Một công cụ mới giúp tính toán nguy cơ tim mạch

Tính điểm nguy cơ PREVENT là một công cụ mới do các chuyên gia khoa học tình nguyện làm việc với Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ phát triển giúp mọi người hiểu rõ hơn nguy cơ mắc bệnh tim, đột quỵ hoặc suy tim. Công cụ này tính toán tổng nguy cơ mắc bệnh tim mạch trong 10 và 30 năm bằng cách sử dụng các biện pháp sức khỏe tim, thận và chuyển hóa như cholesterol, huyết áp, đường huyết, cân nặng và tuổi tác. Không giống như các thang điểm nguy cơ khác, công cụ này không tính đến chủng tộc hoặc giới tính của một người nhưng có bao gồm các biện pháp bất lợi về mặt xã hội.

Công cụ này được xác thực bằng cách sử dụng dữ liệu từ hơn 6 triệu người lớn ở Hoa Kỳ có độ tuổi trung bình là 53. Với thời gian theo dõi trung bình 4,8 năm, PREVENT dự đoán chính xác và cẩn thận nguy cơ mắc bệnh tim mạch và nhiều phân nhóm của bệnh này trong một mẫu lớn người lớn, đa dạng và đương đại ở Hoa Kỳ.

Một nghiên cứu của JAMA sử dụng dữ liệu NHANES đã điều tra mức độ ước tính nguy cơ tim mạch của PREVENT so với Pooled Cohort Equation, hay PCE, vốn là tiêu chuẩn trước đây để tính nguy cơ tim mạch trong 10 năm. Tính điểm PREVENT dự đoán nguy cơ tim mạch do xơ vữa động mạch thấp hơn so với PCE, cho thấy ước tính trước đây có thể quá cao và một số người được điều trị thuốc quá mức để hạ lipid và huyết áp.

Ngày càng có nhiều bằng chứng về lợi ích rộng rãi của thuốc chống béo phì

Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh, 40% người lớn ở Hoa Kỳ bị béo phì, vấn đề đã gia tăng đều đặn trong thập kỷ qua. Béo phì góp phần gây ra bệnh tim mạch và các bệnh mãn tính khác, ước tính gây ra 4 triệu ca tử vong trên toàn cầu vào năm 2015.

Một lượng lớn bằng chứng cho thấy thuốc chống béo phì được phát triển để điều trị bệnh đái tháo đường có thể mang lại lợi ích cho những người mắc và không mắc bệnh đái tháo đường, làm giảm các triệu chứng và tử vong liên quan đến tim mạch, thận và suy tim, đồng thời cải thiện tình trạng giảm cân ở người lớn và trẻ em. Năm nghiên cứu như vậy đã được công bố trên Tạp chí Y học New England.

Ba nghiên cứu đã điều tra các ứng dụng tiềm năng của semaglutide, một chất chủ vận thụ thể peptide-1 giống glucagon, trước đây đã được chứng minh là làm giảm nguy cơ tim mạch ở những người bị tiểu đường. Nhưng không rõ liệu loại thuốc này có thể làm giảm những nguy cơ này ở những người không bị đái tháo đường hay không. Một thử nghiệm ưu việt, ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng giả dược, đa trung tâm trên 17.604 người lớn tuổi trung niên đã phát hiện ra rằng nó cũng có thể.

Những người đang phải đối mặt với tình trạng béo phì hoặc thừa cân - có bệnh tim mạch từ trước nhưng không bị đái tháo đường - được tiêm 2,4 mg semaglutide mỗi tuần đã giảm nguy cơ tử vong liên quan đến tim mạch, đau tim không tử vong và đột quỵ không tử vong trong hơn ba năm theo dõi.

Cuộc điều tra khác phát hiện ra rằng những người bị suy tim liên quan đến béo phì với phân suất tống máu được bảo tồn và bệnh đái tháo đường type 2 có thể làm giảm các triệu chứng suy tim và giảm cân nhiều hơn với cùng liều dùng một lần hằng tuần. Và một nghiên cứu thứ ba cho thấy những người bị bệnh thận mãn tính và bệnh đái tháo đường type 2 có thể được hưởng lợi từ liều thậm chí còn thấp hơn của semaglutide. Những bệnh nhân được tiêm dưới da 1 mg mỗi tuần trong thời gian trung bình là 3,4 năm cải thiện chức năng thận và giảm nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân.

Tirzepatide, một chất chủ vận thụ thể peptide-1 giống glucagon khác, cũng làm giảm nguy cơ tử vong liên quan đến tim mạch và làm suy tim nặng hơn ở những người béo phì bị suy tim và phân suất tống máu bảo tồn khi dùng liều 15 mg tiêm dưới da trong 52 tuần.

Bằng chứng mới cho thấy liraglutide, một chất chủ vận thụ thể peptide-1 giống glucagon thứ ba đã được chứng minh là có thể gây giảm cân ở người lớn và thanh thiếu niên béo phì, cũng có thể được sử dụng để cải thiện tình trạng giảm cân ở trẻ em dưới 12 tuổi, khi tiêm hàng ngày thêm vào các biện pháp can thiệp lối sống. Chưa có loại thuốc nào được chấp thuận để điều trị tình trạng giảm cân ở trẻ em trong nhóm tuổi này.

Nhiều tiến bộ hơn trong điều trị và phòng ngừa suy tim

Suy tim xảy ra khi tim không thể bơm máu đầy đủ đến các bộ phận còn lại của cơ thể, làm các mô bị thiếu oxy. Có một số loại suy tim, có thể ảnh hưởng đến suy tim trái, phải hoặc cả hai bên. Khi suy tim ảnh hưởng đến buồng tim trái hoặc tâm thất, tim phải làm việc nhiều hơn để bơm cùng một lượng máu. Tỷ lệ phần trăm thể tích máu được tống ra khỏi tim với mỗi nhịp đập được gọi là phân suất tống máu, hay EF, được coi là bình thường khi tâm thất trái tống ra khoảng 60% lượng máu có trong đó.

Trong suy tim với phân suất tống máu được bảo tồn, hay HFpEF, tim không thể chứa đầy máu trong kỳ nghỉ ngơi giữa các nhát bóp tim. Một loại suy tim khác là HFrEF, hay suy tim với phân suất tống máu giảm, xảy ra khi tâm thất trái mất khả năng co bóp bình thường. Khi điều này xảy ra, tim không thể bơm đủ mạnh để đẩy máu vào tuần hoàn.

Một nhóm thuốc chủ vận thụ thể mineralocorticoid không steroid được chứng minh làm giảm các triệu chứng và tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân HFrEF, nhưng chưa rõ chúng có hiệu quả ra sao đối với những người có phân suất tống máu giảm nhẹ hoặc bảo tồn. Trong một thử nghiệm lâm sàng quốc tế, mù đôi , 6.001 bệnh nhân suy tim và phân suất tống máu thất trái từ 40% trở lên được chỉ định ngẫu nhiên dùng thuốc finerenone (liều tối đa là 20 mg hoặc 40 mg một lần mỗi ngày) hoặc giả dược phù hợp, ngoài liệu pháp thông thường.

Sau theo dõi trung bình 32 tháng, những bệnh nhân dùng finerenone có tỷ lệ các biến cố suy tim nặng hơn và tử vong do nguyên nhân tim mạch thấp hơn đáng kể so với những người dùng giả dược. Những phát hiện này có thể có ý nghĩa thay đổi thực hành.

Một nghiên cứu khác tìm hiểu cách sửa chữa van tim ở những người bị suy tim.

Khi tim hoạt động, dòng máu bình thường qua van hai lá vào tâm thất trái. Hở van hai lá xảy ra khi một lượng máu phụt ngược qua van hai lá vào lại tâm nhĩ trái trong mỗi lần tim bóp, tạo áp lực tăng lên trong tâm nhĩ do lượng máu dư thừa.

Thử nghiệm RESHAPE HF-2  điều tra xem liệu một thủ thuật ít xâm lấn sửa van hai lá có cải thiện hậu quả ở những bệnh nhân bị suy tim và hở van hai lá chức năng hay không. Hơn 500 bệnh nhân từ 30 địa điểm trên chín quốc gia được chỉ định ngẫu nhiên sửa van hai lá qua ống thông với liệu pháp thuốc theo khuyến cáo hoặc chỉ dùng liệu pháp thuốc đơn độc. Việc bổ sung sửa van hai lá qua ống thông cho tỷ lệ nhập viện lần đầu hoặc tái phát do suy tim hoặc tử vong do tim mạch thấp hơn, sức khỏe tốt hơn sau một năm và tỷ lệ nhập viện lần đầu hoặc tái phát do suy tim thấp hơn sau hai năm sau sửa van.

Một nghiên cứu khác trên tạp chí Circulation của AHA đã xem xét cách tiến triển suy tim bằng cách nghiên cứu các cách tế bào trong tim chuột tương hỗ nhau. Các nghiên cứu trước đây chỉ ra các loại tế bào khác nhau trong tim người phản ứng khác nhau với căng thẳng, điều này có thể thay đổi các cách tế bào này tương tác nhau. Hầu hết các nghiên cứu về suy tim đều tập trung vào tế bào cơ tim, các tế bào tạo nên cơ tim. Các nhà nghiên cứu trong nghiên cứu này đã xem xét vai trò của các tế bào nội mô, điều chỉnh sự di chuyển của các cơ chất vào và ra khỏi dòng máu. Họ phát hiện ra rằng khi bị stess, các tế bào nội mô sản xuất ra một loại protein gọi là Igfbp7, gây ra rối loạn chức năng tim. Nhưng một loại vắc-xin nhắm vào Igfbp7 đã cải thiện chức năng tim, cho thấy liệu pháp vắc-xin có thể là một phương pháp điều trị đầy hứa hẹn để ngăn ngừa sự phát triển của suy tim.

Chiến lược quản lý mới cho bệnh cơ tim phì đại (HCM)

Bệnh cơ tim phì đại, hay HCM (hypertrophic cardiomyopathy), khi thành thất trái dày hơn bình thường, khiến chúng cứng lại. Điều này làm giảm lượng máu vào buồng tim và bơm ra cơ thể. Bệnh thường do các bất thường về gen cơ tim gây ra nhưng không được chẩn đoán cho đến tuổi trung niên.

Khi cơ tim dày lên chặn hoặc làm giảm lưu lượng máu từ buồng tim trái vào động mạch chủ, thì được gọi là bệnh cơ tim phì đại tắc nghẽn. Các triệu chứng bao gồm đau ngực, khó thở, mệt mỏi, ngất xỉu, chóng mặt, nhịp tim nhanh hoặc không đều, phù ở mắt cá chân, bàn chân hoặc cẳng chân hoặc ở tĩnh mạch cổ.

Khoảng hai phần ba người mắc HCM loại tắc nghẽn có khả năng tử vong. Bệnh điều trị bằng thuốc nếu không hiệu quả thì bằng một trong hai liệu pháp làm mỏng vách liên thất. Phẫu thuật cắt cơ vách liên thất là một quá trình phẫu thuật loại bỏ cơ tim thừa, cho phép máu thoát ra khỏi buồng tim dễ dàng hơn. Hủy vách liên thất bằng cồn là một thủ thuật xâm lấn tối thiểu trong đó cồn được tiêm vào mạch máu vách liên thất, khiến một phần cơ tim chết. Phương pháp điều trị này có thời gian phục hồi ngắn hơn nhưng nguy cơ biến chứng cao hơn, chẳng hạn như rối loạn nhịp tim.

Phân tích dữ liệu từ 13 trung tâm HCM thu dung lớn từ nghiên cứu quốc tế SHARE (Sarcomeric Human Cardiomyopathy Registry) cung cấp kết quả dài hạn toàn diện và mạnh mẽ nhất cho đến nay đối với hai biện pháp can thiệp chính cho tình trạng phức tạp này. Bài báo bước ngoặt này đã xem hậu quả của 1.377 người đã phẫu thuật cắt bỏ vách liên thất và 455 người được phẫu thuật cắt bỏ vách liên thất bằng cồn qua ống thông. Sau 10 năm theo dõi, nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sống còn chung là 83%, tương đối không bị suy tim với chỉ một số ít trường hợp loạn nhịp thất. Tỷ lệ biến chứng liên quan đến suy tim cao nhất gặp ở một nhóm phụ nữ được phẫu thuật cắt bỏ vách liên thất bằng cồn, mặc dù không rõ lý do tại sao.

Một phương pháp điều trị mới khác giúp làm giảm các triệu chứng ở những người bị HCM tắc nghẽn. HCM khiến mọi người khó có thể vận động hơn vì cơ thể không nhận được đủ oxy cần thiết.

Trong thử nghiệm mù đôi giai đoạn III , những bệnh nhân mắc HCM có triệu chứng, trung bình 59 tuổi, được chỉ định ngẫu nhiên dùng thuốc aficamten hoặc giả dược trong 24 tuần. Những người dùng aficamten đạt được cải thiện lớn hơn về lượng hấp thụ oxy đỉnh so với những người dùng giả dược.

Giảm nguy cơ đe dọa tính mạng của choáng tim

Choáng tim là tình trạng đe dọa tính mạng khi tim không thể bơm đủ máu và oxy cho não và các cơ quan quan trọng khác. Tình trạng này thường do cơn đau tim gây ra.

Nghiên cứu ngẫu nhiên, đa trung tâm, quốc tế này, được công bố trên Tạp chí Y khoa New England, các nhà nghiên cứu mô tả việc sử dụng máy bơm dòng chảy vi trục chuyển máu từ thất trái vào động mạch chủ của bệnh nhân choáng tim sau cơn đau tim nghiêm trọng. Dụng cụ này thành công trong giảm nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân trong vòng sáu tháng. Tuy nhiên, những bệnh nhân được điều trị bằng máy bơm dòng chảy vi trục nguy cơ mắc suy thận cao hơn và gặp các tác dụng phụ khác, chẳng hạn như chảy máu vừa hoặc nặng, giảm lưu lượng máu đến chi và nhiễm trùng huyết.

Liệu nanoplastic có gây nguy cơ mắc bệnh tim mạch không?

Các nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ tiềm ẩn giữa việc tiếp xúc với vi nhựa và nano nhựa - những mảnh nhựa nhỏ hình thành do quá trình phân hủy trong môi trường - và nguy cơ mắc bệnh tim mạch cao hơn, nhưng có rất ít bằng chứng trực tiếp hỗ trợ cho lý thuyết này.

Quan sát đa trung tâm, có triển vọng này đã phân tích các mẫu mảng bám lấy từ những bệnh nhân được phẫu thuật loại bỏ mảng bám trong động mạch cảnh, các mạch máu lớn ở cổ cung cấp máu lên não.

Polyethylene – loại nhựa được sử dụng phổ biến nhất trên thế giới, có trong mọi thứ từ túi đựng đồ tạp hóa đến áo chống đạn – có trong mảng bám động mạch cảnh của hơn 58% bệnh nhân trong nghiên cứu. Polyvinyl clorua, hay nhựa PVC, một vật liệu có độ bền cao được tìm thấy trong các sản phẩm như thiết bị y tế và ống dẫn, cũng có trong mảng bám của 12% số người trong nghiên cứu.

Sau trung bình 34 tháng theo dõi, những bệnh nhân có mảng bám động mạch cảnh chứa những hạt vi nhựa này có nguy cơ mắc bệnh tim, đột quỵ và tử vong do mọi nguyên nhân nào cao hơn so với những bệnh nhân có mảng bám không chứa dấu vết của mảnh vụn nhựa.

Khám phá các liệu pháp mới cho xuất huyết não

Xuất huyết nội sọ, hay ICH (intracerebral hemorrhage), xảy ra khi một mạch máu yếu bị vỡ và chảy máu vào não. Đây là nguyên nhân phổ biến thứ hai gây đột quỵ, chiếm 10-15% các ca đột quỵ ở Hoa Kỳ và tăng nhanh hơn ở những người trẻ đến trung niên so với những người lớn tuổi trong những năm gần đây. Loại đột quỵ này cũng là loại gây tử vong nhiều nhất.

Điều trị tập trung vào việc cầm máu và loại bỏ khối u tụ máu, hoặc máu tụ, giảm áp lực não. Điều này bao gồm dùng thuốc hoặc phẫu thuật, nhưng liệu có nên phẫu thuật hay không và phẫu thuật như thế nào vẫn còn gây tranh cãi.

Một nghiên cứu mới mang lại hy vọng cho ít nhất một số bệnh nhân đột quỵ chảy máu.

ENRICH (Loại bỏ sớm, ít xâm lấn xuất huyết nội sọ) là thử nghiệm đầu tiên cho thấy phẫu thuật ít xâm lấn được thực hiện trong vòng 24 giờ sau đột quỵ chảy máu cấp tính mang lại lợi ích sống sót lớn hơn cho bệnh nhân so với điều trị nội khoa. Tuy nhiên, phẫu thuật chỉ cải thiện khả năng sống sót cho những bệnh nhân bị xuất huyết thùy não – xuất huyết ở vùng nông một trong những thùy não chính – chứ không phải cho những bệnh nhân chảy máu sâu trong não. Các nhà nghiên cứu ngừng ghi danh những bệnh nhân bị xuất huyết não sâu khi rõ ràng là phẫu thuật không mang lại lợi ích gì cho họ.

Thuốc chẹn beta có nên được kê đơn cho tất cả những người sống sót sau cơn đau tim không? Có lẽ là không.

Thuốc chẹn beta là một nhóm thuốc được sử dụng để điều trị nhiều tình trạng tim, bao gồm huyết áp cao, nhịp tim không đều và suy tim. Chúng hoạt động bằng cách ngăn chặn các hormone làm tăng tốc tim, hạ huyết áp và làm tim đập chậm hơn và ít lực hơn. Nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng việc dùng thuốc chẹn beta cho những người sống sót sau cơn đau tim có thể làm giảm nguy cơ bị đau tim mới hoặc tử vong.

Hiệp hội Tim mạch và Trường môn Tim mạch Hoa Kỳ khuyến cáo thuốc chẹn beta cho những người sống sót sau cơn đau tim, những người thường dùng thuốc này trong ít nhất một năm, nếu không muốn nói là suốt đời. Nhưng một nghiên cứu mới đặt ra nghi vấn về việc liệu phương pháp điều trị này có phù hợp với tất cả mọi người hay không.

Những phát hiện được trình bày tại Phiên họp khoa học thường niên năm 2024 của Trường môn Tim mạch Hoa Kỳ và được công bố trên Tạp chí Y khoa New England cho thấy phương pháp điều trị này không phù hợp với những người bị đau tim cấp và có phân suất tống máu bảo tồn 50% trở lên. Những bệnh nhân này, việc sử dụng thuốc chẹn beta trong thời gian dài không làm giảm nguy cơ bị đau tim lần nữa hoặc tử vong.

https://www.heart.org/en/around-the-aha/aha-names-biggest-advances-in-cardiovascular-research-for-2024

Chia sẻ:

NỘI DUNG LIÊN QUAN